Vua Tự Đức không có con
Trong số 13 vua nhà Nguyễn, vua Tự Đức (1848-1883) là một tên tuổi lớn. Xung quanh vị vua này có nhiều câu chuyện được ghi chép và lan truyền đến ngày nay khiến hậu thế không khỏi cảm thấy thú vị vì sự trái ngược trong đánh giá cùng một con người.
Tự Đức – vị vua chí hiếu với mẹ nhưng không thể có con
Theo sử sách ghi lại, trong suốt 36 năm trị vì, vua Tự Đức rất coi trọng bổn phận làm con, luôn tuân thủ rất nghiêm “lịch làm việc – lịch làm con” do mình tự đặt ra. Vào các ngày chẵn, ông cùng tùy tùng vào hậu cung vấn an sức khỏe mẫu hậu, chỉ các ngày lẻ thì thiết triều hoặc lo việc triều đình, cứ như thế suốt 36 năm không sai ngày nào. Lịch sử còn ghi lại chuyện Tự Đức có lần ra ngoài đi săn không thể về cung đúng giờ thăm mẹ, ngay khi đặt chân vào cung, Tự Đức đã dâng mâm son trên có một chiếc roi mây, quỳ trước mặt mẹ xin chịu đánh đến khi mẹ tha cho mới đứng dậy.
Vua Tự Đức
Mẫu hậu Từ Dũ hẳn là người mẹ hạnh phúc nhất vì có một người con dù ngồi trên ngôi cao nhưng luôn giữ đúng bổn phận, luôn tôn kính và chăm sóc, tình cảm với người sinh thành. Hiện vẫn còn một cuốn sách do chính Tự Đức ghi lại tên là “Từ huấn lục” chép lại nghiêm ngắn những lời mẫu hậu Từ Dũ truyền dạy mà người con trai Tự Đức thấy đáng lưu tâm. Cuốn sách này vua luôn mang trong mình, khi rảnh lại mang ra nghiền ngẫm.
Bà Từ Dũ vốn là một người rất quan tâm, chăm lo đến đời sống muôn dân. Tuy sống trong cung cấm nhưng nhiều việc bên ngoài bà vẫn nắm rõ. Chính bà nhiều lần đã khuyên con trai xem xét việc giảm thuế cho dân những năm mất mùa, đói kém. May mắn cho vị mẫu hậu nhân từ là có một người con chí hiếu nên những lời ngọc của bà nhanh chóng được Tự Đức áp dụng, mang lại tiếng thơm cho vương triều.
Phụng sự mẹ tận đạo làm con nhưng chính vị vua này cũng ghi danh trong lịch sử là vị vua tuyệt tự. Đây cũng là điều đau khổ nhất của ông vì theo quan niệm của Nho giáo “Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại” (có 3 điều bất hiếu, không có con là điều nặng nhất). Tự Đức suốt 36 năm trị vì, với hoàng phi Lệ Thiên Anh (sau khi mất mới phong làm hoàng hậu) không có mụn con nào. Với nhiều cung phi khác, Tự Đức cũng thất bại trong việc có con nối dõi. Nguyên nhân do vua lúc bé bị bệnh đậu mùa nên không thể có con. Ông vua chí hiếu này đành nhận ba người cháu làm con nuôi để truyền ngôi là Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Ưng Ái (tức vua Dục Đức), Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (tức vua Đồng Khánh) và Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Đăng (tức vua Kiến Phúc).
Cũng vì không có con nên Tự Đức đã phải làm một việc xưa nay hiếm có vị vua nào phải làm: tự viết văn bia cho mình. Thông thường, con phải dựng văn bia cho cha nhưng vì hoàn cảnh riêng mà ông vua tài hoa này phải tự mình làm điều đó. Ngày nay, văn bia nặng trên 20 tấn do Tự Đức viết vẫn còn ở Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Lăng vua Tự Đức ở Huế
Tự Đức – vị vua cực giỏi văn thơ nhưng thi văn đỗ… cuối bảng
Tự Đức được ghi nhận là ông vua uyên thâm nhất triều Nguyễn. Ông rất chăm lo việc khoa bảng, thi cử và đặt ra các khoa thi nhằm chọn lấy người có tài văn học ra làm quan.
Tự Đức là người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Đêm nào ông cũng xem sách đến khuya. Ông làm nhiều thơ băng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự Chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca…Tự Đức cũng có một thú vui tao nhã là giao thiệp, đối họa thi phú với những nhà thơ, học giả đương thời.
Tự Đức còn là ông vua yêu thích lịch sử , chính trị, tự tay vua còn phê nhiều lời bình luân trong bộ sử lớn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, từ đời thượng cổ cho tới hết thời nhà Hậu Lê. Vua cũng rất yêu nghệ thuật, là người chỉ đạo để các nghệ sĩ đương thời soạn những vở tuồng lớn Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy… Nghệ thuật kiến trúc cũng được vua Tự Đức say mê nghiên cứu và ứng dụng, tiêu biểu nhất chính là lăng vua. Chính nhà vua đã “chuẩn định” mô thức xây dựng lăng, trong khuôn viên trọng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Các hệ thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
Thế nhưng bên cạnh tất cả những miêu tả về con người tài hoa ấy cũng có một câu chuyện nhỏ vui vui cho thấy sự đánh giá về tài văn thơ của nhà vua khác hẳn bình thường. Bản thân vua cũng thường tự hào về tài văn chương của mình. Vua thường nói: “Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên”.
Thấy mọi người không có vẻ tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra một cách, ông cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối; trong bài của ông có lời phê rằng: “Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!”.
Thực ra câu chuyện này chỉ là một nét chấm phá cho bức tranh miêu tả vị vua tài hoa thêm phần sinh động chứ tài năng của vua Tự Đức thì đã được cả người đương thời và hậu thế công nhận và trân trọng.
Song Minh(Đất Việt)